Tóm
tắt: Việc tích hợp nội dung đấu tranh, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trong giảng dạy phần A.II. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là yêu cầu
cấp thiết trong bối cảnh các thế lực thù địch gia tăng xuyên tạc chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Trường Chính trị tỉnh Ninh Bình, giảng
viên đã chủ động lồng ghép nội dung này vào bài giảng, giúp học viên nhận thức
đúng bản chất các vấn đề xã hội, nâng cao bản lĩnh chính trị và khả năng phản
biện. Tuy nhiên, việc tích hợp đôi lúc còn mang tính hình thức, thiếu chiều
sâu, chưa linh hoạt trong phương pháp giảng dạy. Để nâng cao hiệu quả, cần quán
triệt sâu sắc nhiệm vụ tích hợp, tăng cường năng lực giảng viên, đổi mới phương
pháp giảng dạy, xây dựng hệ thống tài liệu thực tiễn và đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động giảng dạy.
Từ khóa: tích hợp giảng dạy, bảo vệ nền tảng tư tưởng, chủ
nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản bác quan điểm sai trái, Trường
Chính trị, giải pháp giảng dạy.
Trong
Chương trình trung cấp lý luận chính trị, phần A.II. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử thuộc Khối kiến thức Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí trung tâm, có tính nền tảng và
chi phối. Phần học này cung cấp cho học viên thế giới quan và phương pháp luận khoa
học để nhận thức đúng quy luật vận động, phát triển của xã hội. Đây là những
tri thức căn bản không chỉ phục vụ cho việc lý giải các hiện tượng xã hội một
cách khoa học, mà còn là cơ sở quan trọng để củng cố lập trường tư tưởng và bản
lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các thế lực thù địch,
phản động, cơ hội chính trị đang không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá,
công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền
tảng lý luận, kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Do đó,
một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra là cần nâng cao chất lượng giảng
dạy lý luận chính trị, đặc biệt là tích hợp có hiệu quả nội dung đấu tranh, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vào quá trình giảng dạy các môn học, trong đó có
phần A.II. Tuy nhiên, tích hợp không phải là việc chèn ghép cơ học, mà cần được
tiến hành một cách khoa học, tự nhiên, linh hoạt trong cả nội dung bài giảng,
phương pháp truyền đạt và hình thức tổ chức lớp học. Thông qua đó, bài giảng
không chỉ trang bị kiến thức lý luận, mà còn bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, nâng
cao năng lực nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần
trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng từ trong các trường chính
trị - nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở địa phương.
1.
Thực trạng tích hợp đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giảng dạy
phần A.II. Chủ nghĩa duy vật lịch sử tại Trường Chính trị tỉnh Ninh Bình
Phần
học được thiết kế với 5 bài, bao gồm 40 tiết, nhằm trang bị cho học viên những
nội dung cơ bản về: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; Giai cấp và đấu
tranh giai cấp; Nhà nước và cách mạng xã hội; Quan điểm triết học Mác-Lênin về
con người, Quan điểm triết học Mác-Lênin về ý thức xã hội. Nhận thức được nhiệm
vụ của mình, giảng viên dạy Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chủ động
lồng ghép bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch vào tất cả các chuyên đề của phần học với nhiều nội dung,
phương pháp phong phú, tạo sự thu hút, hứng thú để học viên tự giác, chủ động
tham gia vào hoạt động này.
Thứ
nhất, nội dung tích hợp giúp học viên hiểu được bản chất cách mạng, khoa học của
Chủ nghĩa duy vật lịch sử - cơ sở lý luận quan trọng để bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Chủ
nghĩa duy vật lịch sử đặt nền tảng nhận thức xã hội trên một nguyên lý căn bản:
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
(1845-1846), C.Mác và Ph.Ăngghen xác lập luận điểm cốt lõi: “Không phải ý thức
quyết định đời sống, mà chính đời sống xã hội quyết định ý thức”1.
Đây là tuyên ngôn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khẳng định vai trò quyết định
của điều kiện vật chất và tồn tại xã hội đối với tư tưởng con người. Con người
không tồn tại đơn lẻ trong một thế giới trừu tượng, mà sống, lao động, sản xuất
và tương tác trong những điều kiện vật chất - lịch sử - xã hội nhất định. Chính
mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và đời sống xã hội, tức là các
quan hệ kinh tế - xã hội, mới là nhân tố cốt lõi quy định tiến trình lịch sử.
Quan
điểm này bác bỏ quan niệm duy tâm, siêu hình trước đó, vốn giải thích lịch sử dựa
vào ý chí cá nhân, tôn giáo hay đạo đức. Giúp người học hiểu được lịch sử không
phải là tập hợp của những biến cố ngẫu nhiên, mà có quy luật vận động khách
quan; thực tiễn sản xuất giữ vai trò trung tâm, chi phối đến mọi lĩnh vực xã hội
- từ chính trị, pháp luật, đến văn hóa, tư tưởng. Có giá trị định hướng trong
nhận thức và hành động thực tiễn, nhất là trong việc lý giải những biến động xã
hội trong bối cảnh chuyển đổi mô hình phát triển ở Việt Nam.
Đồng thời với việc bảo vệ, giảng viên cần chỉ ra cho học
viên thấy khía cạnh cần bổ sung, phát triển vào lý luận về hình thái kinh tế -
xã hội.
Ví dụ, bản thân người lao động
là công nhân hiện nay đã
có sự thay đổi đáng kể. Ở thời đại của C.Mác, chủ yếu là công nhân cơ khí, đa số
là lao động thủ công nhưng ngày nay, những thành tựu của cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đã làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của
con người được giải phóng; trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động
không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng
nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày
càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường.
Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số
lượng và chất lượng đang làm thay đổi dần tỷ trọng của lao động phổ thông và
lao động có trình độ cao. Việc bổ sung thêm nội hàm của khái niệm người lao động là
rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Trước
đây, khi nói đến lực lượng sản xuất, C.Mác nhấn mạnh nhiều đến khả năng của con
người trong việc chinh phục giới tự nhiên. C.Mác viết: “Lực lượng sản xuất chẳng
qua là năng lực thực tiễn của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên”2. Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững,
quan niệm về lực lượng sản xuất cần bổ sung thêm khía cạnh sống hài hòa với tự
nhiên. Do mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ngày càng xung khắc, biểu hiện
qua việc thiên tai xuất hiện ngày càng nhiều, mức độ nghiêm trọng ngày càng gia
tăng, nên con người cần từng bước điều chỉnh lại hoạt động sản xuất vật chất,
chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn lọc, tránh làm
tổn hại đến tự nhiên.
Bên
cạnh đó, Chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định sự ra đời và
phát triển của các giai cấp gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Khi xuất hiện chế độ tư hữu và sự phân hóa xã hội về kinh
tế thì giai cấp và đấu tranh giai cấp là tất yếu. Đấu tranh giai cấp là động lực
thúc đẩy lịch sử phát triển - là hình thức biểu hiện của mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” cản trở
lực lượng sản xuất. Lý luận này là vũ khí sắc bén giúp phân tích nguồn gốc sâu
xa của các xung đột xã hội. Lưu ý rằng nó không cổ súy xung đột, mà chỉ ra quy
luật để điều chỉnh sự phát triển một cách tiến bộ. Ở Việt Nam, việc xây dựng một
xã hội không còn áp bức, bóc lột, hướng tới công bằng và dân chủ, phải được thực
hiện bằng phương pháp hòa bình, trên cơ sở đấu tranh tư tưởng, chống các thế lực
thù địch, đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh
giữa cái mới, cái tiến bộ với cái cũ, lạc hậu - những hình thái mới của đấu
tranh giai cấp trong điều kiện hiện đại.
Trên
cơ sở đó, Chủ nghĩa duy vật lịch sử tiếp tục làm rõ bản chất giai
cấp của nhà nước: nhà nước là sản phẩm của sự phân hóa giai cấp và là công cụ của
giai cấp thống trị để duy trì trật tự, bảo vệ lợi ích của mình chứ không phải
là một thực thể trung lập như quan niệm của các học giả tư sản. Theo đó, trong
xã hội có giai cấp đối kháng, nhà nước không thể đại diện cho lợi ích chung của
toàn xã hội. Vì vậy, cách mạng xã hội là tất yếu khi nhà nước cũ không còn khả
năng duy trì trật tự trên cơ sở những mâu thuẫn xã hội gay gắt. Lý luận này lý
giải tính tất yếu của sự ra đời nhà nước kiểu mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Trong
bối cảnh hiện nay, khi các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc vai trò lãnh đạo của
Đảng, phủ nhận tính chất giai cấp của Nhà nước ta, thì quan điểm của Chủ
nghĩa duy vật lịch sử về nhà nước chính là nền tảng tư tưởng để bảo vệ
sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống
chính trị.
Có
thể thấy, tích hợp không chỉ dừng ở việc lồng ghép nội dung đấu tranh tư tưởng
vào bài giảng, mà còn là sự thể hiện nhất quán của lập trường giai cấp, quan điểm
của Đảng trong từng ví dụ, từng lập luận, từng cách lý giải các vấn đề xã hội. Bản
thân quá trình giảng dạy chính là một hành vi thực hành đấu tranh lý luận thầm
lặng nhưng sâu sắc, bền bỉ và có sức lan tỏa. Khi học viên hiểu được bản chất
cách mạng, khoa học và biện chứng của Chủ nghĩa duy vật lịch sử,
họ không chỉ tiếp thu một học thuyết, mà còn được trang bị một bộ công cụ nhận
thức sắc bén để tự bảo vệ chính mình trước những luận điệu xuyên tạc, và cao
hơn nữa là trở thành những chiến sĩ lý luận góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng trong điều kiện mới.
Thứ
hai, nội dung tích hợp giúp học viên nhận diện bản chất, âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch tấn công vào Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các
thế lực thù địch không chỉ sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng
xã hội mà còn mượn danh “khoa học”, “tự do học thuật”, “cải cách lý luận” để từng
bước phủ nhận tính khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng. Vì vậy, thông qua các bài giảng,
giảng viên tích hợp những nội dung cụ thể giúp học viên nhận diện được bản chất
và thủ đoạn của chúng, đồng thời rèn luyện bản lĩnh tư tưởng, khả năng nhận định
và phản biện.
Chẳng
hạn như ở bài 7: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, tích hợp các nội dung vạch trần thủ đoạn phủ nhận
quy luật khách quan của lịch sử, bóp méo vai trò của sản xuất vật chất, thay
vào đó đề cao các yếu tố siêu hình, thần học hoặc văn hóa thuần túy. Một số
quan điểm sai trái đưa ra nhận định sai lệch về con đường phát triển của Việt
Nam, cho rằng chúng ta đang “đi ngược lại xu hướng chung” hoặc “cần cải cách
triệt để mô hình chính trị”. Những luận điểm đó thực chất là phủ nhận con đường
xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trò giảng dạy Triết học Mác-Lênin, giảng viên tiếp
tục khẳng định tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về hình thái kinh tế -
xã hội.
Chúng ta không thể phủ nhận một hiện thực là sự sụp đổ của
Chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô
và Đông Âu là một bước lùi lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế
giới. Đó cũng là một tổn thất to lớn cho phong trào đấu tranh cho những mục
tiêu cao cả và tốt đẹp của nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến
bộ xã hội và hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, sự sụp đổ đó không phải là sự
“cáo chung” của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội nói riêng. Nó cũng không phải là do chủ nghĩa Mác-Lênin đã lạc hậu, lỗi
thời mà đó thực sự là do đã hiểu sai, vận dụng sai những quan điểm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Qua đó, giảng viên truyền tải tinh thần đến học
viên rằng việc nhận thức, vận
dụng và phát triển vừa phải đứng vững trên lập trường cách mạng, lập trường của
giai cấp công nhân, vừa phải thực hiện với một cách thức, phương pháp khoa học nghiêm túc, đúng đắn.
Một
trong những luận điệu cũng thường xuyên được các thế lực thù địch và cơ hội
chính trị rêu rao là: con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa bị tước đoạt quyền
tự do tư tưởng, không được thể hiện ý chí cá nhân, dân chủ chỉ là hình thức,
mang tính áp đặt từ phía nhà cầm quyền. Chúng cố tình xuyên tạc rằng: cơ chế “một
Đảng duy nhất lãnh đạo” ở Việt Nam đồng nghĩa với “độc tài”, “bịt miệng nhân
dân”,… Từ đó, chúng kêu gọi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, lấy mô hình
phương Tây làm chuẩn mực. Do đó, khi giảng dạy bài 10: Quan điểm triết học
Mác-Lênin về con người, giảng viên tích hợp nội dung đấu tranh, phản
bác luận điệu trên qua việc làm rõ triết học Mác-Lênin không coi con người chỉ
là cá nhân sinh học hay cá thể cô lập, mà luôn nhấn mạnh: con người là một chỉnh
thể thống nhất giữa cá nhân và xã hội, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tích hợp nội dung về bản chất dân chủ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để thấy được chính chế độ xã hội chủ
nghĩa mới là điều kiện để dân chủ được mở rộng thực chất, chứ không phải dân chủ
hình thức, bị chi phối bởi các thế lực tư bản như trong mô hình phương Tây. Đồng
thời, thông qua tích hợp các vấn đề thời sự, chính sách mới, số liệu thực tế đã
giúp học viên thấy rõ Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người
trong khuôn khổ pháp luật: Chính sách phát triển giáo dục, y tế, giảm nghèo bền
vững, nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI); Các phiên họp Quốc hội được
truyền hình trực tiếp, tiếp nhận ý kiến cử tri; đa dạng hình thức trưng cầu dân
ý, góp ý dự thảo luật... Những minh chứng này được lồng ghép tự nhiên trong bài
giảng sẽ giúp học viên có cái nhìn toàn diện, khách quan và hình thành thái độ,
niềm tin tích cực đối với vai trò của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ
ba, phương pháp tích hợp khoa học, linh hoạt giúp học viên có thái độ, động cơ
đúng đắn trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Thời
gian qua, các giảng viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực,
lấy người học làm trung tâm, khơi gợi sự chủ động, sáng tạo và tinh thần trách
nhiệm trong tiếp cận vấn đề. Giảng viên thường lồng ghép những nội dung bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng khi đưa ra các câu hỏi, các tình huống chính trị -
xã hội để lớp học cùng nhau trao đổi, thảo luận… Thông qua đó, học viên thể hiện
kiến thức, quan điểm, thái độ, cách ứng xử của mình và các giải pháp để đấu
tranh phản bác các quan điểm, sai trái của các thế lực thù địch. Nội dung nào học
viên chưa hiểu sẽ được giảng viên bổ sung, gắn lý luận gắn với thực tiễn. Những
buổi học đó thường rất sôi nổi, thu hút được sự quan tâm của các lớp, học viên
thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong học tập.
Ví
dụ, trong bài 9: Nhà nước và cách mạng xã hội, giảng
viên tổ chức thảo luận nhóm, phân tích các mô hình nhà nước tư sản và nhà nước
xã hội chủ nghĩa, qua đó giúp học viên thấy được sự khác biệt về bản chất, chức
năng, vai trò của nhà nước; đồng thời cảnh giác trước luận điệu “tam quyền phân
lập”, “phi chính trị hóa bộ máy nhà nước” đang được cổ súy từ bên ngoài. Hoặc với
bài 11: Ý thức xã hội, giảng viên dùng phương pháp nêu vấn đề và
hỏi - đáp nhằm so sánh, đối chiếu các hệ tư tưởng, giúp học viên hiểu được ý thức
xã hội luôn mang tính giai cấp. Từ đó, học viên có khả năng nhận diện được các
dạng ý thức phản động, cực đoan, lệch chuẩn đang len lỏi trong xã hội hiện đại,
nhất là qua mạng xã hội.
Ngoài
ra, để tích hợp hiệu quả, giảng viên luôn sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi
nhưng chính xác; biết đặt câu hỏi khơi gợi, mở rộng, kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn sinh động, từ đó học viên không cảm thấy khô cứng mà ngược lại bị cuốn hút
vào bài học, hình thành ý thức tự giác trong bảo vệ tư tưởng, lập trường của Đảng.
Việc
tích hợp nội dung đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giảng dạy
học phần A.II. Chủ nghĩa duy vật lịch sử tại Trường Chính trị tỉnh
Ninh Bình thời gian qua còn bộc lộ một số hạn chế như: một số thời điểm còn xem
nhẹ vai trò tích hợp; một số nội dung lồng ghép còn hình thức, thiếu chiều sâu;
ít cập nhật các luận điệu sai trái mới; phương pháp giảng dạy chưa linh hoạt,
thiếu tính tranh biện và phản biện; tài liệu tham khảo còn hạn chế, chưa đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đặt ra.
2.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng tích hợp đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng trong giảng dạy học phần A.II. Chủ nghĩa duy vật lịch sử tại Trường
Chính trị tỉnh Ninh Bình thời gian tới
Một
là,
Ban Giám hiệu và Khoa Lý luận cơ sở tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt giảng
viên tích cực nghiên cứu và giảng dạy phải bám sát nội dung, chương trình đào tạo,
các hệ lớp để xây dựng, lồng ghép những nội dung liên quan trực tiếp đến bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Hai
là,
nâng cao nhận thức, trách nhiệm chính trị và trình độ chuyên môn của giảng viên.
Không ngừng rèn luyện phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, cập nhật tri thức mới,
đặc biệt là những vấn đề thời sự, các luận điệu sai trái, xuyên tạc về chủ
nghĩa Mác-Lênin để chủ động lồng ghép trong quá trình giảng dạy.
Ba là, Khoa Lý luận cơ sở cần xây dựng hệ thống tài liệu, ngân hàng ví dụ, tình huống thời
sự mang tính gợi mở, phản biện, phù hợp với từng bài học. Nhằm giúp giảng
viên dễ dàng tích hợp nội dung đấu tranh tư tưởng vào bài giảng một cách sinh động,
dễ hiểu, gắn với thực tiễn địa phương.
Bốn
là, đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng
tích cực, lấy người học làm trung tâm. Cần đẩy mạnh các phương pháp giảng dạy
tích cực như thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết tình huống,… từ đó lồng ghép
nội dung đấu tranh tư tưởng một cách tự nhiên, hiệu quả. Khi người học được trực
tiếp tiếp cận, xử lý vấn đề và thảo luận, họ sẽ có nhận thức sâu hơn và hình
thành kỹ năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng một cách chủ động.
Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông vào giảng dạy. Cần khuyến
khích sử dụng phim tư liệu, clip phóng sự, bài phát biểu của các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước… để tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vào
từng bài học, tạo nên môi trường học tập sinh động, hấp dẫn. Như
vậy, việc tích hợp nội dung đấu
tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giảng dạy phần A.II. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử không chỉ nhằm nâng cao chất lượng bài giảng, mà
còn là giải pháp quan trọng để trang bị cho học viên tư duy biện chứng, bản
lĩnh chính trị và khả năng phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Trong điều
kiện tình hình mới, khi các thế lực thù địch gia tăng xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi giảng viên càng phải ý thức rõ hơn vai trò của mình,
từ đó chủ động, sáng tạo và trách nhiệm trong việc lồng ghép nội dung tích hợp
một cách sâu sắc, linh hoạt và hiệu quả, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng của
Đảng ngay từ mỗi bài học, mỗi lớp học.
------------------------
1.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1995, t.3, tr.38.
2.
C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t.23, tr268.
Ths. Đàm Thị Hồng
Giảng viên Khoa Lý luận cơ sở
|